triết học

Các tính chất cơ bản của sự thật trong triết học

Mục lục:

Các tính chất cơ bản của sự thật trong triết học
Các tính chất cơ bản của sự thật trong triết học
Anonim

Vấn đề này là trung tâm của hệ thống kiến ​​thức triết học. Hàng trăm học giả đã làm việc để xác định các tính chất cơ bản của sự thật. Các nhân vật của các lý thuyết triết học là khác nhau: một số trong số họ có nguồn gốc trong các giáo lý trước đó, những người khác hoàn toàn mâu thuẫn với nhau.

Image

Định nghĩa kinh điển về sự thật của kiến ​​thức

Khái niệm về sự thật trong cuộc sống hàng ngày có thể chứa một ý nghĩa khác, nhưng trong khoa học, trước hết, nó được hiểu là sự tương ứng của một phán đoán với thực tế khách quan. Nói về một số tính chất nhất định của các đối tượng và hiện tượng của thực tế, sau đó cần phải chỉ ra chúng, để kết nối các tuyên bố với các đối tượng của thế giới vật chất.

Quan điểm về sự thật này quay trở lại với những lời dạy của Aristotle. Nhưng làm thế nào bản chất của các đối tượng của thế giới vật chất tồn tại trong thời gian và không gian có thể tương quan với bản chất lý tưởng của các suy luận logic? Do mâu thuẫn này, những quan điểm mới về khái niệm chân lý đã xuất hiện trong triết học.

Image

Quan điểm thay thế về các thuộc tính của sự thật

Một trong những cách tiếp cận như sau: đúng về mặt phương pháp để biện minh cho một tuyên bố chỉ với sự trợ giúp của một tuyên bố khác. Trong triết học, có cái gọi là khái niệm mạch lạc, theo đó, tiêu chí của sự thật chỉ có thể đóng vai trò là sự tương ứng của các tuyên bố trong bản án. Tuy nhiên, cách tiếp cận này không đưa triết gia trở lại thế giới vật chất.

Immanuel Kant tin rằng các tính chất chính của sự thật là tính phổ quát và sự cần thiết, sự phối hợp suy nghĩ với chính mình. Các nguồn tri thức của triết gia không phải là thực tế khách quan, mà là một kiến ​​thức tiên nghiệm mà một người có.

Nhà khoa học người Pháp Rene Descartes đã đề xuất bằng chứng của nó như là một tiêu chí cho sự thật của kiến ​​thức. Các học giả khác, như Mach và Averanius, đã tuân thủ nguyên tắc dao cạo của Occam và đề xuất nền kinh tế suy nghĩ là đặc điểm chính của sự thật.

Theo học thuyết về chủ nghĩa thực dụng, trái ngược với lý thuyết mạch lạc, một tuyên bố có thể được coi là đúng nếu nó mang lại lợi ích thiết thực. Đại diện của nó là các nhà triết học người Mỹ Charles Pierce và William James. Một ví dụ nổi bật về quan điểm này về bản chất của sự thật là quan điểm của học giả Hy Lạp cổ đại Ptolemy. Họ trình bày một mô hình của thế giới tương ứng với những gì nó dường như, và không phải là những gì nó thực sự là. Nhưng mặc dù vậy, nó mang lại lợi ích thiết thực đáng kể. Với sự giúp đỡ của bản đồ Ptolemy, các sự kiện thiên văn khác nhau đã được dự đoán chính xác.

Image

Quan điểm của nhà khoa học cổ đại có đúng không? Câu trả lời cho câu hỏi này được đưa ra bởi một lý thuyết gọi là thuyết tương đối. Các phán đoán độc lập và mâu thuẫn với nhau có thể đúng, như khái niệm nói.

Một học thuyết khác - chủ nghĩa duy vật - diễn giải hiện thực khách quan là tồn tại độc lập với một người, và do đó, trong khuôn khổ các khái niệm của mình, các tính chất chính của sự thật là sự tương xứng và tương ứng của sự phản ánh các đối tượng và hiện tượng của thế giới thực.

Và làm thế nào những vấn đề này đang được xem xét bây giờ? Các tính chất của sự thật khách quan hiện nay là gì?

Image

Tính nhất quán hợp lý

Tiêu chí sự thật này có nguồn gốc từ một khái niệm mạch lạc. Điều kiện này là cần thiết, nhưng để nhận ra lý thuyết là đúng, nó phải bao gồm các tính chất khác của sự thật. Kiến thức có thể nhất quán bên trong, nhưng điều này không đảm bảo rằng nó không sai.

Chủ nghĩa thực dụng, hoặc thực hành

Chủ nghĩa duy vật biện chứng đưa ra tiêu chí sau đây cho sự thật của kiến ​​thức: tính ứng dụng của nó trong thực tiễn. Các lý thuyết không mang trong mình giá trị nội tại, chúng không được con người phát triển để lấp đầy các thư viện. Kiến thức là cần thiết để nó có thể được áp dụng trong thực tế. Trong thực tế, sự thống nhất của suy nghĩ về đối tượng và hành động.

Tính đặc hiệu

Các tài sản tiếp theo của sự thật. Nó có nghĩa là một phán đoán cụ thể là đúng trong khuôn khổ của một bối cảnh cụ thể, theo các điều kiện nhất định. Bất kỳ đối tượng nào của thế giới vật chất đều có một số thuộc tính cụ thể nhất định và được bao gồm trong hệ thống các đối tượng khác. Do đó, một phán đoán chính xác không thể được đưa ra mà không tính đến các điều kiện này.

Kiểm chứng

Một tiêu chí khác cho sự thật là khả năng kiểm tra nó theo kinh nghiệm. Trong khoa học, có các khái niệm xác minh và giả mạo. Cái đầu tiên biểu thị quá trình mà sự thật của kiến ​​thức được thiết lập thông qua kinh nghiệm, nghĩa là xác minh theo kinh nghiệm. Làm sai lệch là một quá trình tư duy logic, với sự giúp đỡ trong đó người ta có thể xác định sự giả dối của một luận án hoặc lý thuyết.

Sự tuyệt đối và tương đối

Triết học phân biệt hai loại sự thật: tuyệt đối và tương đối. Đầu tiên là một kiến ​​thức đầy đủ về chủ đề này, không thể bác bỏ trong quá trình nghiên cứu sâu hơn. Ví dụ phổ biến của sự thật tuyệt đối là hằng số vật lý, ngày tháng lịch sử. Tuy nhiên, loại này không phải là mục tiêu của kiến ​​thức.

Loại thứ hai - sự thật tương đối - có thể chứa các thành phần tuyệt đối, nhưng nó phải được làm rõ. Ví dụ, toàn bộ kiến ​​thức của con người về bản chất của vật chất thuộc loại này.

Cần lưu ý rằng kiến ​​thức cũng có thể sai. Tuy nhiên, một lời nói dối nên được phân biệt với lỗi hoặc phán đoán sai lầm không chủ ý. Sự thật tương đối có thể chứa loại biến dạng này. Các tính chất và tiêu chí của sự thật làm cho có thể tránh được các lỗi như vậy: đối với điều này, kiến ​​thức thu được phải tương quan với chúng.

Image

Kiến thức khoa học, trên thực tế, là một phong trào hướng tới những sự thật tuyệt đối từ những sự thật tương đối, và quá trình này không bao giờ có thể hoàn thành đến cùng.