thiên nhiên

Cá bồ nông. Các loại và mô tả

Mục lục:

Cá bồ nông. Các loại và mô tả
Cá bồ nông. Các loại và mô tả
Anonim

Thuật ngữ "cá pelagic" xuất phát từ nơi chúng sống. Vùng này là một khu vực của biển hoặc đại dương không giáp với bề mặt đáy.

Xương chậu - nó là gì?

Từ tiếng Hy Lạp, cá pelagial của người Viking được hiểu là vùng biển mở của Hồi, nơi phục vụ như là môi trường sống của Nekton, Plankton và Pleiston. Thông thường, vùng pelagic được chia thành nhiều lớp:

  • biểu mô - nằm ở độ sâu 200 mét;

  • mesopelagial - ở độ sâu lên tới 1000 mét;

  • tắm biển - lên đến 4000 mét;

  • hơn 4000 mét - abisopelagial.

Image

Cá Pelagic: mô tả

Đây là những cư dân biển, một đặc điểm đặc trưng là môi trường sống - vùng biển. Có hai loại cá pelagic: ven biển và đại dương. Cái trước chiếm nước nông, nơi ánh sáng mặt trời xuyên qua, trong khi cái trước dành phần lớn chúng ở các tầng sâu, thỉnh thoảng bơi ở vùng ven biển, chủ yếu để sinh sản.

Đối với hầu hết các phần, cá pelagic đã tự khẳng định mình là người bơi lội xuất sắc. Cơ thể của hình dạng ngư lôi hoặc trục chính cho phép chúng nhanh chóng mổ xẻ cột nước dày đặc, đồng thời phát triển tốc độ cao. Kích cỡ của cá pelagic từ rất nhỏ (cá trích, cá thu hoặc cá trích) đến các loài săn mồi khổng lồ: cá mập đại dương và cá ngừ. Cá bồ nông rất thường tạo thành những bãi cạn khổng lồ, đôi khi đạt tới hơn một ngàn tấn, nhưng có những loài giống như một môi trường sống đơn độc.

Image

Quan điểm phổ biến

Việc đánh bắt cá thương mại chính là pelagic. Nó chiếm 65-75% tổng sản lượng đánh bắt. Do trữ lượng tự nhiên lớn và sẵn có, cá pelagic là loại hải sản rẻ tiền nhất. Tuy nhiên, điều này không ảnh hưởng đến hương vị và tính hữu dụng. Cá Pelagic của Biển Đen, Bắc, Marmara, Baltic, cũng như Bắc Đại Tây Dương và Lưu vực Thái Bình Dương chiếm vị trí hàng đầu trong đánh bắt cá. Chúng bao gồm smelt (capelin), cá cơm, cá trích, cá trích, cá thu ngựa, cá tuyết (cá trắng), cá thu.

Image

Có lẽ phổ biến nhất và tìm kiếm cá là cá trích. Nó chủ yếu sống ở vùng biển pelagic của Bắc Đại Tây Dương, ở Biển Barents và phía Bắc. Bốn nhóm cá trích được phân biệt: sinh sản, sinh sản trước lớn, béo và cá trích nhỏ. Các sản phẩm có giá trị nhất là cá trích dầu. Rốt cuộc, nó dễ dàng được bảo tồn và được muối hoàn hảo.

Người tiêu dùng phổ biến thứ hai là cá thu. Loài cá này thuộc bộ gõ và phổ biến rộng rãi ở vùng biển Baltic, Black và Sea of ​​Marmara. Chiều dài trung bình của cá thu là 30 - 35 cm. Một số cá nhân có khả năng đạt chiều dài lên tới 60 cm. Màu sắc của cá thu có màu xanh xám với một số lượng lớn các sọc đen nằm ở mặt sau. Đó là lý tưởng cho việc sản xuất đồ hộp, các sản phẩm hun khói lạnh, cũng như cá và balyks lơ lửng.

Loài thứ ba phổ biến của cá pelagic, là thương mại, bao gồm capelin và cá trích. Capelin là một loài cá Bắc cực nhỏ, ăn động vật giáp xác và sinh vật phù du. Chiều dài của nó hiếm khi vượt quá 20 cm. Đây là một loài cá học đường sống ở các tầng trên gần như tròn. Nó được sử dụng ở dạng thuốc xịt, ướp và hun khói, và cũng được sấy khô.

Salaka chủ yếu sinh sống ở vùng biển của biển Baltic. Bề ngoài, nó rất giống với cá trích Đại Tây Dương, nhưng khác ở kích thước nhỏ hơn, thay đổi trong vòng 20 cm. Salaka có thân hình thon dài và tông màu bạc. Cá này được bán ở dạng đông lạnh, dưới dạng bảo quản và thực phẩm đóng hộp và trong một phiên bản ướp lạnh.

Image