người nổi tiếng

Nhà văn Alfons de Lamartine: tiểu sử, sáng tạo và sự thật thú vị

Mục lục:

Nhà văn Alfons de Lamartine: tiểu sử, sáng tạo và sự thật thú vị
Nhà văn Alfons de Lamartine: tiểu sử, sáng tạo và sự thật thú vị
Anonim

Alfons de Lamartine (1790-1869) - một nhà thơ và chính trị gia xuất sắc thời bấy giờ, có một cái tên nổi tiếng ở Pháp trong Cách mạng Pháp. Alphonse Maria Louis de Prat de Lamartine là một nhà viết kịch và văn xuôi, đồng thời là một chính trị gia người Pháp. Ông là một diễn giả đặc biệt, người tuyên bố và lãnh đạo nền Cộng hòa thứ hai, và là một trong những nhân vật vĩ đại nhất của chủ nghĩa lãng mạn ở Pháp.

Tiểu sử chính

Sinh ngày 21 tháng 10 năm 1790 tại Burgundy. Còn được gọi là Alphonse Marie Louis De Prat De Lamartine.

Tư tưởng chính trị: một đảng chính trị - học thuyết (1815-1848), những người Cộng hòa ôn hòa (1848-1869).

Gia đình:

  1. Vợ - Mary Ann Eliza Burch.
  2. Cha - Pierre de Lamartine.
  3. Mẹ là Alix Des Royce.
  4. Trẻ em: Alfons De Lamartine, Julia De Lamartine.

Ông qua đời ở tuổi 78 vào ngày 28 tháng 2 năm 1869 tại Paris.

Image

Tiểu sử của Alfonso de Lamartine

Sinh ra trong một gia đình giàu có, Lamartine có một nền giáo dục Công giáo. Mặc dù thực tế là cha mẹ ông là những người ủng hộ trung thành của Napoleon, ông đã coi thường ông và ủng hộ chế độ của nhà cai trị Pháp Louis Philippe. Sau đó, ông đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động của nền Cộng hòa thứ hai sau Cách mạng Pháp năm 1848. Các tác phẩm văn học của ông có ảnh hưởng sâu sắc đến văn học Pháp. Họ lấy cảm hứng từ sự mất mát của một người thân yêu. Ảnh hưởng lớn đến công việc của anh ta có một Julie Charles, người mà anh ta đã gặp trong thời gian lưu vong ở Aix-les-Bains.

Những bài thơ của ông đã gây được tiếng vang trong lòng độc giả, có tác động cảm xúc sâu sắc. Mặc dù thực tế rằng ông đã cực kỳ thành công như một nhà thơ, sự nghiệp chính trị của ông đầy những thăng trầm. Lamartine bắt đầu như một người bảo vệ hoàng gia dưới thời vua Louis XVIII, và sau đó được bổ nhiệm làm nhà ngoại giao của đại sứ quán Pháp. Qua nhiều năm, anh dần bắt đầu nghiêng về dân chủ, từ bỏ nghề quân sự. Sau khi Napoléon lên nắm quyền, nhà thơ đã buộc phải tham gia vào tác phẩm văn học trong phần lớn cuộc đời tương lai của mình, vì cuối cùng ông đã phá sản.

Image

Tuổi thơ và tuổi trẻ

Alphonse sinh ngày 21 tháng 10 năm 1790 tại Burgundy, Pháp, trong một gia đình hoàng gia tin vào chính sách của Hoàng đế Napoleon. Cha của ông, một quý tộc, đã bị bắt trong thời kỳ Thermidorian của Cách mạng Pháp, nhưng may mắn thay, đã thoát khỏi sự hỗn loạn và tàn sát sau đó.

Alfons học tại nhà với mẹ trong những năm đầu, và sau đó tiếp tục học tại thành phố Lyon của Pháp vào năm 1805. Tuy nhiên, trong cùng năm đó, ông được chuyển đến tổ chức tôn giáo, ông Pere Perez de la Foy, (người cha của đức tin), nằm ở Belly. Chàng trai trẻ tiếp tục việc học ở đó trong bốn năm tới.

Image

Hoạt động chính trị

Mặc dù cha mẹ ông là những người ủng hộ trung thành của hoàng gia, Lamartine đã gia nhập đoàn kịch Gardes du corps vào năm 1814, người bảo vệ vị vua nổi tiếng Louis XVIII, khi Hoàng đế Napoleon bị lật đổ ở Pháp và Bourbons lên nắm quyền.

Ông đã tị nạn ở Thụy Sĩ sau khi Napoleon trở lại Pháp vào năm 1815. Lamartine thậm chí đã bắt đầu viết thơ vào thời điểm này. Sau khi kết thúc trận Waterloo, cuộc đụng độ giữa các lực lượng Pháp và châu Âu khác, nhà thơ đã trở lại Paris.

Năm 1820, ông gia nhập quân đoàn ngoại giao, được kiểm soát bởi các vị vua Pháp của Bourbons. Cuộc hẹn đầu tiên của ông là thư ký của Đại sứ quán Pháp tại Naples.

Alfons de Lamartine được chuyển đến Florence vào năm 1824, nơi ông sống trong năm năm tiếp theo. Ông được trao tặng Huân chương Quân đoàn danh dự bởi Charles X, Quốc vương Pháp, vì bài thơ được phát âm trong lễ đăng quang của ông.

Năm 1829, khi rời đại sứ quán ở Florence, Alphonse đã phát hành một bộ sưu tập thơ khác mang tên "Hòa âm của các nhà thơ và tôn giáo". Sau khi xuất bản, ông được nhận vào Học viện Pháp, tổ chức chính thức của những người có học và xử lý các vấn đề liên quan đến tiếng Pháp.

Tham gia vào các dịch vụ ngoại giao dưới thời chính phủ Pháp, ông đã thực hiện một cuộc hành trình qua các vùng đất phía đông vào năm 1832. Sau đó, nhà thơ đã đến thăm Syria, Lebanon và Palestine trong cuộc bao vây của họ, ông thậm chí đã xuất bản một cuốn sách có tên Voyage en Orient ba năm sau đó.

Ông được bầu làm phó vào năm 1833 sau hai lần thử không thành công với tư cách là phó ở quận Berg thuộc bộ phận Nord. Sau bài phát biểu đầu tiên, ông đã nổi tiếng là một diễn giả có kinh nghiệm và tiếp tục làm việc về thơ và thơ.

Từ 1836 đến 1838, hai tác phẩm của ông, Fall of a Angel và Jocelyn, đã được xuất bản. Cả hai bài thơ đã lấy cảm hứng từ các sự kiện thực tế của mình. Họ phản ánh tình yêu của anh đối với Julia Charles và sau đó anh trở thành người tin vào Chúa.

Tác phẩm chính của Alfons de Lamartine trong lĩnh vực thơ là Recueillements poétiquesme, xuất bản năm 1839. Sau đó, Lamartine tích cực tham gia chính trị. Ông ủng hộ quyền của người nghèo và tìm cách xóa bỏ bất bình đẳng kinh tế.

Image

Năm 1847, tác phẩm lịch sử nổi tiếng của ông, Histoire des Girondins, đã được xuất bản. Trong cuốn sách này, ông đã trình bày về lịch sử của đảng Girondins trong và sau cuộc cách mạng.

Sau Cách mạng Pháp năm 1848, khi quốc vương bị phế truất quyền lực và chính phủ được bầu, Lamartine là một trong những người đầu tiên trở thành một nhân vật nổi bật trong chính phủ lâm thời mới này. Ông được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao của chính quyền mới.

Chính phủ mới được chia thành hai giai cấp: giai cấp công nhân và các đảng cánh hữu tạo nên tinh hoa của xã hội. Hai giáo phái coi thường nhau, và khi các nhà lãnh đạo cánh hữu nhận ra rằng Lamartine đang bảo vệ nguyên nhân của giai cấp công nhân, ông đã bị trục xuất khỏi hội đồng vào tháng 6 năm 1848.

Nghề thơ

Năm 1816, khi đi du lịch đến Aix-les-Bains, nơi ông đi điều trị bệnh thần kinh, Lamartine đã yêu say đắm Julie Charles. Họ được cho là sẽ gặp lại nhau trên hồ Bourget một năm sau đó, nhưng căn bệnh của cô nghiêm trọng hơn căn bệnh của anh và cô không thể rời Paris, nơi cô đã chết vài tháng sau đó.

Cảm động sâu sắc bởi những mối quan hệ này, Lamartine đã viết một trong những tác phẩm trữ tình hay nhất của mình và vào năm 1820 đã xuất bản một bộ gồm 24 câu thơ có tên là Médemony. Các tuyển tập đã đạt được thành công ngay lập tức. Bộ sưu tập này được coi là tác phẩm thơ lãng mạn đầu tiên bằng tiếng Pháp và là một trong những cuốn sách hay nhất của Alfonso de Lamartine. Mặc dù những bài thơ không đáng ngạc nhiên đổi mới về hình thức hoặc kỹ thuật, nhưng chúng phát triển chủ nghĩa trữ tình cá nhân mãnh liệt làm sinh động ngôn ngữ trừu tượng và hình ảnh lỗi thời.

Image

Lê Lạc ("Hồ") là một bài thơ mà Lamartine nhớ nhất. Nó phản ánh thời gian trôi qua và sự thoải mái của nhà thơ trong cảm giác mà thiên nhiên che giấu trong chính ký ức về tình yêu đã mất của mình. Những bài thơ khác, chẳng hạn như Cô lập, nói về sự dằn vặt của một người nhạy cảm, thờ ơ với cuộc sống, vì tình yêu và ý nghĩa của sự tồn tại đã bị lấy đi từ anh ta. Trong những câu thơ khác, nhà thơ khẳng định một đức tin mới sinh ra khi nghỉ hưu. Lamartine không có ý định tạo ra một cuộc cách mạng văn học với những tác phẩm này, hầu hết trong số đó giữ lại một phần nhịp điệu và hình ảnh của câu thơ tân cổ điển. Nhưng chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa trữ tình trực tiếp của nó là mới đối với câu thơ tiếng Pháp.

Bị buộc phải phá sản và bị bỏ rơi bởi những người cùng thời, sau khi Napoleon trở lại nắm quyền, Lamartine buộc phải làm việc không mệt mỏi cho đến hết đời. Những tác phẩm của anh trong những năm cuối đời bao gồm Raphaël, Les Confidences và Nouvelles Confidences. Ông cũng viết tiểu thuyết: Genevieve (1851), Antoniella, Hồi ức chính trị (1863).

Cuộc sống cá nhân và di sản

Thành công của cả hoạt động tài chính và văn học và việc bổ nhiệm vào chức vụ tại Đại sứ quán Naples đã cho phép Lamartine kết hôn với người phụ nữ Anh Mary Ann Burch vào tháng 6 năm 1820. Trong 10 năm tiếp theo, nhà ngoại giao trẻ tuổi tiếp tục sự nghiệp của mình ở Naples và Florence. Con trai được sinh ra, nhưng chết trong giai đoạn trứng nước, và vào năm 1822, con gái Julia được sinh ra. Ông tiếp tục xuất bản nhiều câu thơ khác nhau: tuyển tập thứ hai của Médemonyin 1823; Le Dernier chant du pélerinage d'Harold (Nhạc Bài hát cuối cùng của thời thơ ấu Harold Hành hương) để vinh danh Byron năm 1825 và Nhạc hòa tấu thơ ca và tôn giáo Hồi giáo năm 1830. Tuy nhiên, ý tưởng tạo ra một tác phẩm sử thi vĩ đại liên tục ám ảnh anh. Năm 1832, ông bắt đầu một chuyến đi đến Thánh địa cùng với vợ và con gái. Julia chết thảm khốc trong chuyến đi, và sự tuyệt vọng do cái chết của cô tìm thấy biểu hiện trong Hetsemani (1834).

Cái chết của con gái ông là một bước ngoặt trong cuộc đời của Lamartine, khi ông từ bỏ Công giáo và biến thành một kẻ theo thuyết phiếm thần. Trong chuyến đi, Alphonse Lamartine trở nên dân chủ hơn trong quan điểm của mình và dùng đến "thuyết phiếm thần" - một hình thức của đức tin tâm linh. Ông phủ nhận bất kỳ sự tham gia nào nữa vào các dịch vụ ngoại giao và quyết định tham gia vào chính trị để cải thiện xã hội.

Image

Lamartine qua đời vào ngày 28 tháng 2 năm 1869 ở tuổi 78 tại Paris, Pháp, bị bạn bè và những người ủng hộ lãng quên từ lâu.

Câu cách ngôn và trích dẫn của Alfons de Lamartine

Càng nhìn thấy loài người, tôi càng ngưỡng mộ những chú chó của mình.

Một lương tâm không có Chúa cũng giống như sự phán xét mà không có thẩm phán.

Đau buồn và buồn bã ràng buộc hai trái tim với sự gắn kết gần gũi hơn hạnh phúc; và đau khổ thông thường mạnh hơn nhiều so với niềm vui thông thường.

Kinh nghiệm là lời tiên tri duy nhất của các nhà hiền triết.

Im lặng - tiếng vỗ tay cho ấn tượng thực sự và mạnh mẽ.

Im lặng và đơn giản không làm phiền ai, nhưng đây cũng là hai sức hấp dẫn không thể so sánh của một người phụ nữ.

Mẹ tôi đã bị thuyết phục, và trên cơ sở đó, tôi đã giữ vững niềm tin chắc chắn của mình rằng giết động vật để nuôi chúng bằng thịt là một trong những điều đáng tiếc và đáng xấu hổ nhất về tình trạng của con người; đây là một trong những lời nguyền áp đặt lên một người bởi sự sa ngã của anh ta, hoặc bởi sự cố chấp của sự đồi trụy của chính anh ta.

Câu cách ngôn của Alfons de Lamartine được biết đến rộng rãi. Phổ biến nhất trong số họ là hơn 30.

Image