thiên nhiên

Omul là một loài cá thuộc họ cá thịt trắng. Mô tả và môi trường sống

Mục lục:

Omul là một loài cá thuộc họ cá thịt trắng. Mô tả và môi trường sống
Omul là một loài cá thuộc họ cá thịt trắng. Mô tả và môi trường sống
Anonim

Cá Omul, hình ảnh trong bài viết này, là từ thứ tự của gia đình giống cá hồi và cá trắng. Nó được coi là một lối đi và câu cá. Nó được đánh giá cao do tính ngon miệng và các đặc tính có lợi của nó. Nó không sống trong tất cả các vùng nước và được coi là thâm hụt.

Môi trường sống

Loài cá này có thể có nhiều loại, tùy thuộc vào môi trường sống. Hiệu trưởng: Bắc Cực và Baikal. Vượt qua omul (còn gọi là Bắc Cực) sống trên bờ Bắc Băng Dương. Nó sinh sản vào các sông Á-Âu hoặc Bắc Mỹ. Trên lãnh thổ của Nga, Bắc cực omul sống ở hầu hết các vùng nước phía bắc, ngoại trừ sông Ob.

Hình thức thứ hai là cá Baikal. Baikal omul sống chủ yếu ở hồ Baikal. Đôi khi được tìm thấy ở Viễn Đông hoặc trong các dòng sông vùng lãnh nguyên của Vịnh Yenisei. Baikal omul phân bố không đều trong hồ. Phía đông nam là phong phú với loài cá này, và ở phía tây bắc nó không phải là tất cả.

Image

Giả thuyết về sự xuất hiện của Baikal omul

Có hai giả thuyết mà các nhà khoa học đưa ra về sự xuất hiện của omul ở Baikal. Đầu tiên là nó là một loài cá đặc hữu. Tổ tiên của cô sống ở hồ hàng triệu năm trước và thời điểm đó khí hậu ấm áp. Giả thuyết này được hầu hết các nhà khoa học ủng hộ.

Người thứ hai tuyên bố rằng Baikal omul là một con cá đi thuyền vào hồ trong thời kỳ liên vùng dọc theo sông Lena từ Bắc Băng Dương. Mặc dù thực tế là hầu hết các nhà khoa học ủng hộ giả thuyết đầu tiên, sự tương đồng của nó với đối tác Bắc Cực là rất mạnh. Baikal omul chỉ khác nhau ở một số dấu hiệu nhỏ.

Đặc điểm môi trường sống

Omul là loài cá thích sống trong nước lạnh, sạch, giàu oxy. Anh ấy yêu những nơi sâu thẳm. Đây là một trường học của cá. Mùa đông ở độ sâu lớn. Nó có thể hạ xuống độ sâu 300 mét. Omul có thể sống trong nước hơi mặn.

Image

Theo các nhà khoa học, Baikal omul thích những nơi hồ kết nối với những con sông lớn. Có số lượng phù sa lớn nhất, trong đó có ấu trùng côn trùng và động vật giáp xác rất được yêu thích bởi omul. Điều này đơn giản hóa việc tìm kiếm thực phẩm, có lẽ đây là lý do cho sự tích lũy omul lớn nhất ở những nơi như vậy.

Mô tả

Omul là một loài cá bán. Cơ thể thon dài, phủ vảy bạc nhỏ, bó sát. Miệng nhỏ, hàm có cùng chiều dài. Có một vây béo. Màu cơ thể bạc. Mặt sau có màu xanh nâu, bụng sáng, hai bên và vây màu bạc. Ở tuổi dậy thì, con đực phát triển thành biểu mô. Một dải mỏng tối có thể kéo dài dọc theo hai bên.

Omul - một loài cá nhỏ, thường không vượt quá 800 gr. Nhưng đôi khi các cá nhân lớn đi qua. Chiều dài của chúng lên tới nửa mét, và khối lượng hơn một kg rưỡi. Cá sống không quá 18 năm. Tính trung bình, tuổi thọ omul là 11 năm.

Image

Dinh dưỡng

Omul là một loài cá, giống như hầu hết cá hồi, chỉ ngừng ăn trong khi sinh sản. Vào những thời điểm khác, chế độ ăn của cá khá đa dạng. Chế độ ăn uống có động vật phù du, cá con nhỏ và động vật không xương sống đáy. Cá được cho ăn vào mùa thu và mùa hè, ăn các sinh vật phù du, giáp xác và gammarus ở các vùng ven biển.

Chăn nuôi

Cá sinh sản hàng năm ngay khi đến tuổi dậy thì. Tại thời điểm này, chiều dài của các cá nhân thường là hơn 30 cm. Hơn nữa, con đực thường trưởng thành sớm hơn một năm so với con cái. Tuổi dậy thì có thể mất từ ​​2 đến 3 năm.

Để sinh sản, loài cá này đi xa, hơn 1000 km. Đồng thời, nó không tiếp cận bờ biển và tránh nước cạn, giữ ở giữa kênh. Omul đi sinh sản vào đầu đến giữa tháng Tám. Khi đến gần những nơi sinh sản, một đàn cá lớn được chia thành những trường nhỏ.

Cá Omul bắt đầu sinh sản vào cuối tháng 9 - đầu tháng 10. Nhiệt độ nước tại thời điểm này không quá 4 độ. Để ném trứng, omul chọn đáy cát và sỏi với độ sâu ít nhất hai mét.

Đường kính của trứng là từ 1, 6 đến 2, 4 mm. Chúng không dính, đáy. Đã sinh sản, omul đi đến bãi kiếm ăn. Omul có thể đẻ tới 67.000 quả trứng trượt xuống hạ lưu sông, không nán lại ở những nơi sinh sản.

Image

Giá trị kinh tế

Omul là một loại cá thương mại có giá trị. Việc đánh bắt không kiểm soát được của nó đã khiến dân số ở hồ Baikal giảm mạnh. Trong hơn 50 năm qua, Baikal omul đã đứng trước bờ vực tuyệt chủng hơn một lần. Nhưng nhờ những lệnh cấm kịp thời đánh bắt, quần thể cá đã phục hồi. Bây giờ một lần nữa omul có nguy cơ tuyệt chủng.