triết học

Triết học La Mã cổ đại: Lịch sử, Nội dung và Trường học cơ bản

Mục lục:

Triết học La Mã cổ đại: Lịch sử, Nội dung và Trường học cơ bản
Triết học La Mã cổ đại: Lịch sử, Nội dung và Trường học cơ bản
Anonim

Triết học La Mã cổ đại được đặc trưng bởi chủ nghĩa chiết trung, giống như toàn bộ thời đại này. Nền văn hóa này được hình thành trong cuộc xung đột với nền văn minh Hy Lạp và đồng thời cảm thấy sự thống nhất với nó. Triết học La Mã không quan tâm lắm đến cách tự nhiên hoạt động - nó chủ yếu nói về cuộc sống, vượt qua nghịch cảnh và nguy hiểm, cũng như cách kết hợp tôn giáo, vật lý, logic và đạo đức.

Image

Học thuyết đức hạnh

Một trong những đại diện nổi bật nhất của trường Stoic là Seneca. Ông là một giáo viên của Nero - được biết đến với danh tiếng nghèo nàn là hoàng đế của Rome cổ đại. Triết lý của Seneca được đặt ra trong các tác phẩm như "Thư gửi Lucillus", "Câu hỏi về tự nhiên". Nhưng chủ nghĩa khắc kỷ La Mã khác với xu hướng Hy Lạp cổ điển. Vì vậy, Zenon và Chrysippus coi logic là bộ xương của triết học và linh hồn - vật lý. Đạo đức, họ nghĩ đó là cơ bắp. Seneca là Stoic mới. Đạo đức gọi là linh hồn của suy nghĩ và tất cả đức hạnh. Và anh sống theo nguyên tắc của mình. Bởi vì anh ta không tán thành việc đàn áp học trò của mình chống lại Kitô hữu và phe đối lập, hoàng đế đã ra lệnh cho Seneca tự sát, điều mà anh ta đã làm với nhân phẩm.

Image

Trường học khiêm tốn và chừng mực

Triết lý của Hy Lạp cổ đại và La Mã đã đưa chủ nghĩa khắc kỷ rất tích cực và phát triển hướng này cho đến khi kết thúc kỷ nguyên của thời cổ đại. Một nhà tư tưởng nổi tiếng khác của trường phái này là Epictetus - nhà triết học đầu tiên của thế giới cổ đại, người từng là nô lệ của nguồn gốc. Điều này để lại một dấu ấn về quan điểm của mình. Epictetus công khai kêu gọi những người nô lệ được coi là những người giống như mọi người khác, điều này không thể tiếp cận được với triết học Hy Lạp. Đối với ông, chủ nghĩa khắc kỷ là một lối sống, một khoa học cho phép bạn duy trì sự tự chủ, không tìm kiếm thú vui và không sợ chết. Ông tuyên bố rằng người ta không nên mong muốn điều tốt nhất, nhưng những gì đã có. Sau đó, bạn sẽ không thất vọng trong cuộc sống. Epictetus gọi sự thờ ơ tín ngưỡng triết học của mình, khoa học của sự chết. Điều này ông gọi là sự vâng lời đối với các Logos (Thiên Chúa). Khiêm tốn với số phận là biểu hiện của sự tự do tinh thần cao nhất. Một tín đồ của Epictetus là Hoàng đế Marcus Aurelius.

Image

Những người hoài nghi

Các nhà sử học nghiên cứu sự phát triển của tư tưởng con người, coi một thứ như triết học cổ đại như một tổng thể duy nhất. Hy Lạp cổ đại và La Mã cổ đại giống nhau giữa họ trong một số khái niệm. Điều này đặc biệt đặc trưng của thời kỳ cổ đại muộn. Chẳng hạn, cả tư tưởng Hy Lạp và La Mã đều biết một thứ như sự hoài nghi. Hướng này luôn luôn phát sinh trong thời kỳ suy tàn của các nền văn minh lớn. Trong triết lý của La Mã cổ đại, đại diện của nó là Enesidem of Knossos (một học trò của Pirron), Agrippa, Sextus Empiricus. Họ đều giống nhau ở chỗ họ phản đối tất cả các loại giáo điều. Khẩu hiệu chính của họ là sự khẳng định rằng tất cả các ngành học mâu thuẫn với nhau và phủ nhận chính họ, chỉ có sự hoài nghi chấp nhận tất cả mọi thứ và đồng thời đưa ra nghi ngờ về nó.

Giới thiệu về bản chất của những thứ

Epicureanism là một trường phổ biến khác của La Mã cổ đại. Triết lý này được biết đến chủ yếu nhờ Titus Lucretius Carus, người sống trong một thời kỳ khá hỗn loạn. Ông là người phiên dịch của Epicurus và trong bài thơ "Về bản chất của sự vật" trong câu thơ đã phác thảo hệ thống triết học của ông. Trước hết, ông đã làm rõ học thuyết về các nguyên tử. Chúng không có bất kỳ tính chất nào, nhưng sự kết hợp của chúng tạo ra phẩm chất của sự vật. Số lượng nguyên tử trong tự nhiên luôn giống nhau. Nhờ họ, sự biến đổi của vật chất xảy ra. Không có gì, không có gì phát sinh. Thế giới là nhiều, chúng phát sinh và diệt vong theo quy luật cần thiết tự nhiên, và các nguyên tử là vĩnh cửu. Vũ trụ là vô hạn, thời gian chỉ tồn tại trong các vật thể và quá trình chứ không phải chính nó.

Image

Sử thi

Lucretius là một trong những nhà tư tưởng và nhà thơ giỏi nhất của La Mã cổ đại. Triết lý của ông làm dấy lên niềm vui và sự phẫn nộ giữa những người đương thời. Ông liên tục tranh luận với đại diện của các lĩnh vực khác, đặc biệt là với những người hoài nghi. Lucretius tin rằng họ vô ích coi khoa học là không tồn tại, bởi vì nếu không chúng ta sẽ liên tục nghĩ rằng mỗi ngày một mặt trời mới mọc lên. Trong khi đó, chúng ta biết rất rõ rằng đây là một và cùng một ngôi sao. Lucretius cũng chỉ trích ý tưởng Platonic về việc truyền linh hồn. Anh ấy nói rằng vì dù sao thì cá nhân cũng chết, điều đó làm cho tinh thần anh ấy đi đến đâu. Cả vật chất và ngoại cảm trong một người được sinh ra, già và chết. Lucretius nghĩ về nguồn gốc của nền văn minh. Ông viết rằng lúc đầu mọi người sống trong tình trạng man rợ cho đến khi họ nhận ra vụ cháy. Và xã hội nảy sinh do một thỏa thuận giữa các cá nhân. Lucretius đã thuyết giảng một chủ nghĩa vô thần sử thi kỳ dị và đồng thời chỉ trích cách cư xử của người La Mã là quá đồi trụy.

Hùng biện

Đại diện sáng nhất của chủ nghĩa chiết trung của La Mã cổ đại, triết lý trong đó là chủ đề của bài viết này, là Mark Tullius Cicero. Ông coi hùng biện là nền tảng của mọi suy nghĩ. Chính trị gia và diễn giả này đã cố gắng kết hợp mong muốn của người La Mã về đức hạnh và nghệ thuật triết học Hy Lạp. Chính Cicero đã giới thiệu khái niệm về con người, hiện nay chúng ta sử dụng rộng rãi trong diễn ngôn chính trị và công cộng. Trong lĩnh vực khoa học, nhà tư tưởng này có thể được gọi là nhà bách khoa toàn thư. Đối với đạo đức và đạo đức, trong lĩnh vực này, ông tin rằng mỗi ngành học đi đến đức hạnh theo cách riêng của mình. Do đó, mọi người có học đều phải biết mọi cách để biết và chấp nhận chúng. Và tất cả các loại nghịch cảnh trong nước được khắc phục bằng ý chí.

Image

Các trường triết học và tôn giáo

Trong thời kỳ này, triết học cổ truyền thống tiếp tục phát triển. La Mã cổ đại đã tiếp thu tốt những lời dạy của Plato và những người theo ông. Đặc biệt là vào thời điểm này, các trường phái triết học và tôn giáo hợp nhất phương Tây và phương Đông là thời trang. Các vấn đề chính được nêu ra bởi những giáo lý này là mối quan hệ và sự đối lập của tinh thần và vật chất.

Một trong những điểm đến phổ biến nhất là chủ nghĩa tân Pythagore. Nó thúc đẩy ý tưởng về một Thiên Chúa và một thế giới đầy mâu thuẫn. Neo-Pythagore tin vào sự kỳ diệu của những con số. Một nhân vật rất nổi tiếng trong trường này là Apollonius của Tyana, người đã bị Apuleius chế giễu trong trò biến thái của mình. Trong số những trí thức La Mã, những lời dạy của Philo of Alexandria chiếm ưu thế, những người đã cố gắng kết hợp Do Thái giáo với Platon. Ông tin rằng Đức Giê-hô-va đã sinh ra Logos, nơi tạo ra thế giới. Không có gì lạ khi Engels tại một thời điểm gọi Philo là "chú của Kitô giáo".

Image